Máy Turing là một trong những mô hình đầu tiên cho tính toán, đó là chúng được phát triển khi bản thân tính toán không được hiểu rõ lắm (khoảng năm 1940). Tôi muốn tập trung vào hai khía cạnh (được cho là) dẫn đến việc họ trở thành mô hình được ưa thích hồi đó, dẫn đến việc trở thành mô hình chuẩn nhất và cuối cùng là tiêu chuẩn.
Tính đơn giản của bằng chứng
Là một mô hình lý thuyết, máy Turing có sức hấp dẫn là "đơn giản" theo nghĩa là trạng thái máy hiện tại chỉ có kích thước không đổi. Tất cả thông tin bạn cần để xác định trạng thái máy tiếp theo là một ký hiệu và một số trạng thái (điều khiển). Sự thay đổi trạng thái máy cũng nhỏ không kém, chỉ thêm chuyển động của đầu máy. Điều đó đơn giản hóa bằng chứng (chính thức) đáng kể, đặc biệt là số lượng các trường hợp được phân biệt.
So sánh khía cạnh này với mô hình RAM (khi không được sử dụng ở dạng tối giản): hoạt động tiếp theo có thể là bất kỳ hoạt động nào, có thể truy cập vào bất kỳ (hai) thanh ghi nào. Ngoài ra còn có nhiều cấu trúc điều khiển.
λμ
Tuy nhiên, đối với máy Turing, cả hai khái niệm đều được xác định dễ dàng (và nằm trong bài viết đầu tiên của Turing trên mô hình của mình, nếu tôi nhớ chính xác). Vì các cân nhắc về hiệu quả đã sớm rất quan trọng đối với việc thực sự làm công cụ, đây là một lợi thế nhất định của máy Turing.
Như vậy, máy Turing đã được thành lập như là các mô hình tính toán, có thể được xem như là một sự kết hợp của lịch sử "tai nạn" và một số tính chất quan trọng của nó. Tuy nhiên, nhiều mô hình đã được xác định từ và được sử dụng một cách say sưa, đặc biệt là để khắc phục những thiếu sót của máy Turing; ví dụ, chúng tẻ nhạt đối với "chương trình" (nghĩa là xác định).
Tôi không nhận thức được bất kỳ ứng dụng trực tiếp trong thực tế. Cụ thể, thực tiễn tính toán phát triển song song với (và, lúc đầu, chủ yếu là độc lập với) lý thuyết tính toán. Ngôn ngữ lập trình được phát triển mà không có mô hình máy chính thức. Tuy nhiên, rõ ràng (nhìn nhận lại) rằng nhiều tiến bộ trong thực hành tính toán đã được kích hoạt bởi lý thuyết.
Hơn nữa, hãy nhớ rằng giá trị mà một khái niệm lý thuyết đã có cho thực tiễn nên được đo lường bằng cách xem xét tất cả các hậu duệ, đó là công việc tiếp theo, kết quả và ý tưởng mới được thực hiện bởi khái niệm đó. Và về vấn đề đó, tôi nghĩ thật công bằng khi nói rằng khái niệm máy Turing (trong số những người khác) đã cách mạng hóa thế giới.